Cho dù ở bất cứ thời kỳ nào, người Anh vẫn tuân theo một quy luật bất biến - cuộc chiến vì các nguồn tài nguyên sống còn luôn là điều cốt lõi của các chính sách chính trị và kinh tế trong suốt quá trình phát triển của nhân loại.Người Anh từ rất lâu đã nhận thức được rằng, bất cứ một quốc gia nào cũng chỉ có thể phồn vinh và phát triển trong trường hợp có được những nguồn tài nguyên chiến lược cơ bản và khả năng tiếp cận không hạn chế tới chúng. Những nguồn tài nguyên trên thực tế cũng rất đa dạng: năng lượng, nước, khoáng sản, nguyên liệu v.v… Nhưng cho dù ở bất cứ thời kỳ nào, người Anh vẫn tuân theo một quy luật bất biến – cuộc chiến vì các nguồn tài nguyên sống còn luôn là điều cốt lõi của các chính sách chính trị và kinh tế trong suốt quá trình phát triển của nhân loại. Dầu mỏ với vai trò là nguồn năng lượng hàng đầu trong thời đại ngày nay tất nhiên cũng không phải là điều ngoại lệ đối với người Anh.
Cho đến cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, nước Anh vẫn chưa có khả năng tiếp cận trực tiếp với các nguồn tài nguyên dầu mỏ lớn. Chính vì vậy, London luôn phải phụ thuộc vào nguồn cung cấp dầu từ Mỹ, Nga và Mexico. Đây là một thực trạng không thể chấp nhận được của người Anh, vốn luôn nhấn mạnh yếu tố cần thiết phải kiểm soát các mỏ dầu “của mình”. Từ đầu thế kỷ XX, khi Anh bắt đầu từ bỏ nguồn năng lượng chính là than để chuyển sang dầu, “yếu tố dầu mỏ” đã trở thành vấn đề chủ chốt trong chính sách đối ngoại của xứ sở sương mù.
Người Anh không bao giờ quên câu nói nổi tiếng của Đô đốc John Fisher từ đầu thế kỷ XX khẳng định: “Ai nắm được dầu mỏ, người đó sẽ cai trị thế giới”. Đó là lý do ngay từ tháng 7/1918, cố vấn về bảo đảm dầu mỏ của Bộ Tư lệnh Hải quân, Đô đốc Edmond Slade, đã công bố một bị vong lục đặc biệt, trong đó khẳng định nhiệm vụ hàng đầu trong chính sách của Anh tại Trung Đông chính là thiết lập quyền kiểm soát vững chắc các mỏ dầu đã đưa vào khai thác, cũng như các mỏ dầu có triển vọng tại Iran và Mesopotamia (khu vực nằm giữa hai con sông
Tigris – Euphrates, hiện chủ yếu thuộc về Iraq, một vài phần còn lại thuộc về Syria, Thổ Nhĩ Kỳ và Iran).
Cũng vì mục tiêu xác lập quyền thống trị của mình tại Trung Đông, người Anh ngay từ trước Chiến tranh thế giới thứ nhất đã không ít lần giật dây cho những bộ lạc người Arập nổi dậy chống lại đế chế Osman, cũng như xúi giục họ chém giết lẫn nhau. Tại các quốc gia nằm ở phía đông, nước Anh còn xây dựng một mạng lưới tình báo rộng lớn, một trong những nhiệm vụ chính của nó là phục vụ cho các quyền lợi về dầu mỏ của Anh trong khu vực.
Chiến dịch “AJAX”“Viên ngọc dầu mỏ” của đế chế Anh chính là xứ sở giàu vàng đen Iran. Cũng vì chính sách của Anh tại Iran chỉ tận lực khai thác mà không nhằm cải thiện đáng kể cuộc sống của người dân (tiền trích lại cho Chính phủ Iran từ việc bán dầu thường rất ít ỏi), làn sóng bất bình của người dân Iran đối với chính phủ ngày càng lan rộng, đã có một nhân vật mới lên nắm chiếc ghế thủ tướng từ năm 1949 là Mohammad Mosaddegh.
Ngay từ khi lên nắm quyền, Mosaddegh đã xác định nhiệm vụ cơ bản của mình là phải đặt ngành công nghiệp khai thác dầu dưới sự kiểm soát của Chính phủ Iran. Tháng 3/1951, Mosaddegh đưa ra sáng kiến về một dự thảo luật nhằm quốc hữu hóa các mỏ dầu. Bằng hành động giành quyền kiểm soát khai thác dầu của Công ty Dầu mỏ Anh-Iran (về sau trở thành Tập đoàn Dầu mỏ BP – British Petroleum), Mosaddegh đã dám cả gan đối đầu trực tiếp với Chính phủ Anh, khi đó đang nắm số cổ phần kiểm soát công ty này. Tòa án quốc tế và Liên Hiệp Quốc cũng đứng về phía Mosaddegh, thừa nhận quyết định trên của Chính phủ Iran là hợp pháp.
Mohammad Mosaddegh bị lật đổ và bắt giữ chỉ vì dám quốc hữu hóa các mỏ dầu của Anh
Không thể đạt được thỏa thuận có lợi với Mosaddegh, người Anh quyết định phải lật đổ vị thủ tướng cứng đầu này. Kế hoạch về một chiến dịch nhằm loại bỏ Thủ tướng Iran đã được mật vụ Anh bắt tay vào soạn thảo từ năm 1951. London hiểu rằng, một hành động từ chức đơn giản của Mosaddegh (đang có uy tín rất cao trong dân chúng) rõ ràng là không thể đủ. Cần phải làm mất uy tín của ông này trong con mắt những người dân thường tại Iran. Lượng sức mình không có khả năng làm điều này, giới lãnh đạo Anh đã quyết định viện đến sự giúp đỡ của chính quyền Mỹ. Trong trường hợp thành công, London hứa hẹn với đồng minh bên kia bờ đại dương về một tỉ lệ đáng kể trong ngành công nghiệp dầu mỏ của Iran.
Tổng thống Mỹ Dwight Eisenhower rất nhanh chóng đạt được thỏa thuận với người Anh. Vào thời điểm đó, Mỹ cũng vừa thất bại trong đàm phán với Chính phủ Iran, không thể tự mình thỏa thuận với Thủ tướng Iran về vấn đề khai thác dầu của mình tại quốc gia này. Chính vì vậy, Chính phủ Mỹ cũng rất quyết tâm trả thù tay thủ tướng bướng bỉnh của Iran. Người Mỹ vội vàng lên kế hoạch lật đổ Mosaddegh với sự tham gia chỉ đạo trực tiếp của Ngoại trưởng John Foster Dulles và người em ruột Allen Dulles trong vai trò Giám đốc CIA.
Dù kế hoạch cuối cùng nhằm lật đổ Mosaddegh chỉ được các chính phủ Anh và Mỹ thông qua vào tháng 6/1953, nhưng những bước đi đầu tiên nhằm hiện thực hóa nó đã được triển khai từ trước đó. Chiến dịch có mật danh “Ajax” này được giao cho tay sĩ quan CIA Kermit Roosevelt, là cháu trai của Tổng thống Theodor Roosevelt. Theo dự tính của London và Washington, người đảm nhiệm chiếc ghế thủ tướng mới của Iran sẽ là viên tướng Fazlollah Zahedi, kẻ thù chính trị từ lâu nay của Mosaddegh.
Có một chi tiết lý thú là chính viên tướng Iran này vào năm 1943 đã từng bị người Anh bắt giữ vì tội hợp tác với những phần tử phát xít, trước khi đày ông này tới Palestine trong 3 năm. Một nhiệm vụ quan trọng nữa trong chiến dịch “Ajax” là phải “đạo diễn trước” ý kiến của công luận cho cuộc đảo chính sắp tới. Nhiệm vụ này thật ra không phải là quá phức tạp. Kermit Roosevelt cùng các trợ lý của mình (tới Iran từ tháng 6/1953) đã tổ chức một loạt những cuộc gặp gỡ với các nghị sĩ, giới lãnh đạo tinh thần, quan chức quân sự, phóng viên, các nhà hoạt động xã hội v.v… hào phóng tung ra những khoản tiền hối lộ lớn cho những người cần thiết. Người Mỹ không hề tiếc tiền cho chiến dịch này – CIA được cấp tới hơn một triệu USD, một khoản tiền có giá trị khá lớn vào thời điểm đó.
Khi bộ máy tuyên truyền được Anh và Mỹ gây dựng tại Iran đã hoạt động hết công suất, Mosaddegh bắt đầu bị cáo buộc một loạt những tội danh tày trời: tham nhũng, có các quan điểm chống đạo hồi, chống chế độ quân chủ, thậm chí hợp tác với đảng cộng sản Iran (một điều chắc chắn không hề có do Mosaddegh được giáo dục thuần túy theo các quan điểm phương Tây tại Pháp và Thụy Sĩ).
Tại các thành phố của Iran bắt đầu diễn ra những cuộc tuần hành chống chính phủ, những người tham gia đều được Mỹ hào phóng trả tiền thù lao. Dần dần, những cuộc “tuần hành hòa bình” đã biến thành những cuộc xung đột với phe ủng hộ Mosaddegh và tất nhiên xảy ra cả đổ máu. Ngoài ra, CIA và MI-6 còn thuê một số phần tử giả dạng người của đảng cộng sản tổ chức một số vụ tàn sát tại thành phố khiến phần lớn người dân đều nổi giận. Trên đường phố và cả đài phát thanh bắt đầu xuất hiện nhiều lời kêu gọi Mosaddegh phải từ chức, người lúc này cũng đã “ngấm đòn” từ những áp lực về thông tin và tâm lý trên.
Mosaddegh dù sao vẫn từ chối việc điều quân đội trấn áp những kẻ gây rối loạn, do không muốn đưa đất nước vào cảnh nội chiến. Nhưng đến lúc này, bất cứ một điều nhỏ nhặt nhất cũng trở thành cái cớ để bắt đầu cuộc đảo chính. Các binh sĩ Iran bị mua chuộc đã dùng xe tăng tấn công vào nhà của Mosaddegh làm gần 300 người thiệt mạng. Bị bắt và giam giữ ngay tại nhà, Mosaddegh sống lay lắt rồi qua đời vào năm 1967.
Liên quan đến vấn đề “chiến lợi phẩm dầu mỏ” (cũng là nguyên nhân dẫn đến cuộc đảo chính tại Iran), chính quyền mới của Iran vào năm 1954 đã ký kết với Tập đoàn Dầu mỏ Quốc tế một thỏa thuận, cho phép tập đoàn này có quyền khai thác và chế biến dầu của Iran trong vòng 25 năm với khả năng được gia hạn thêm về thời gian. Theo đó, có 40% cổ phần của tập đoàn được chia đều cho 5 công ty dầu mỏ Mỹ (Chevron, Exxon, Gulf, Mobil và Texaco), 14% dành cho công ty liên doanh Anh – Hà Lan Royal Dutch Shell, 6% thuộc về Hãng Compagnie Francaise des Petroles của Pháp. British Petroleum vẫn giữ tỉ lệ lớn nhất 40% cho riêng mình. Ngoài ra, công ty này còn nhận được khoản “tiền đền bù 25 triệu bảng” từ Chính phủ Iran vì những tổn thất đã phải hứng chịu do chính sách quốc hữu hóa của Mosaddegh.
Mohammad Mosaddegh bị lật đổ và bắt giữ chỉ vì dám quốc hữu hóa các mỏ dầu của Anh
Cuộc chiến giành kênh đào SuezĐến giữa thế kỷ XX, kênh đào Suez đã nổi lên với một ý nghĩa đặc biệt quan trọng liên quan đến việc cung cấp dầu từ các nước vùng vịnh Pecxich tới Tây Âu. Có tới 2/3 số hàng hóa vận chuyển qua kênh Suez là dầu mỏ, 2/3 lượng dầu mỏ tiêu thụ tại châu Âu cũng được chuyển tải qua đường này. Điều hành con kênh này là Suez Canal Company, một công ty do Chính phủ Anh nắm giữ số cổ phần chính. Chính vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi phần lớn thu nhập từ con kênh này đều rơi vào túi của người Anh.
Nếu như Ai Cập có thể nắm quyền kiểm soát toàn bộ con kênh này, ngân sách của quốc gia nghèo khó này sẽ được bổ sung những khoản tiền đáng kể. Đó là lý do việc quốc hữu hóa kênh đào Suez đã trở thành nhiệm vụ chính của Tổng thống Ai Cập Gamal Abdul Nasser. Ông Nasser lý giải rằng, nếu như các quốc gia khai thác dầu nhận được 50% lợi nhuận từ dầu mỏ của mình, thì tại sao Ai Cập lại không thể nhận được 50% lợi nhuận từ kênh đào Suez? Thủ lĩnh Ai Cập khi đàm phán với các chính trị gia Anh đã nhấn mạnh, Ai Cập cần phải có những điều kiện tương tự như các nhà sản xuất dầu, tức là nhận được 50% lợi nhuận từ tiền thu phí qua kênh Suez.
“Ai nắm được dầu mỏ, người đó sẽ cai trị thế giới” (Câu nói nổi tiếng của đô đốc người Anh, John Fisher, từ đầu thế kỷ XX) |
Tuy nhiên, phía Anh đã cố tình làm lơ, không xem xét lại thỏa thuận đã ký sẽ hết hạn vào năm 1968. Theo như Ngoại trưởng Anh Selwyn Lloyd tuyên bố vào năm 1956, “con kênh đang là một bộ phận không thể tách rời của toàn bộ tổ hợp dầu mỏ Trung Đông, đang có ý nghĩa sống còn đối với Anh”. Trong khi Nasser lại tính toán rằng, tiền thuế sử dụng kênh Suez có thể được sử dụng để cung cấp tài chính cho việc xây dựng con đập Aswan, có ý nghĩa quan trọng đến việc phát triển kinh tế của Ai Cập. Theo lệnh của Nasser, quân đội nước này đã kiểm soát toàn bộ kênh đào Suez.
Người Anh tỏ ra rất kiên quyết phải trừng phạt Nasser vì hành vi ngang ngược này. Họ đã tìm được đồng minh của mình tại Pháp, nơi cũng coi thủ lĩnh Ai Cập như một mối đe dọa đối với các vị thế của mình tại Bắc Phi. Tất nhiên đối với Anh, “thói hiếu chiến” của họ chỉ có thể giải thích duy nhất bằng một từ – đó là “dầu mỏ”. Các mỏ dầu do Anh sở hữu tại Trung Đông chiếm phần lớn trong các khoản thu nhập của quốc gia này tại nước ngoài. Việc đánh mất nó tất nhiên trở thành đòn đau không thể phục hồi giáng vào kinh tế của Anh.
Trong khi vàng và nguồn dự trữ đôla của Anh chỉ có thể đủ để chi trả cho 3 tháng nhập khẩu dầu. Bức tranh đáng ngại về nguy cơ trên đã được Thứ trưởng Ngoại giao Ivone Kirkpaterick mô tả đặc biệt rõ ràng: “Nếu chúng ta chỉ biết ngồi buông tay, Nasser sẽ củng cố được vị thế của mình, dần dần nắm quyền kiểm soát các quốc gia có dầu mỏ, dẫn tới có thể tiêu diệt chúng ta. Nếu như nguồn dầu mỏ Trung Đông không được cung cấp cho chúng ta chỉ trong từ 1 đến 2 năm, nguồn dự trữ vàng của chúng ta sẽ cạn sạch. Khi nguồn dự trữ vàng biến mất, vùng ảnh hưởng của đồng bảng Anh sẽ sụp đổ. Nếu vùng ảnh hưởng của đồng bảng sụp đổ và mọi nguồn dự trữ không còn, chúng ta sẽ không thể duy trì sự hiện diện của mình tại Đức hay bất kỳ một nơi nào khác. Tôi nghi ngờ rằng, chúng ta còn khó có thể đủ tiền chi trả cho khả năng phòng vệ tối thiểu của mình. Và một quốc gia khi không thể bảo vệ mình sẽ bị xóa sổ”.
Ngày 24/10/1956, các quan chức đại diện ngoại giao và quân sự cao cấp nhất của Anh và Pháp (kể cả các bộ trưởng ngoại giao) đã có cuộc gặp bí mật tại một biệt thự gần Paris. Tất cả đi đến kết luận, mục đích cuối cùng của chiến dịch tấn công Ai Cập là xây dựng một căn cứ quân sự ngay tại khu vực kênh đào, nếu như có thể sẽ lật đổ luôn Nasser. Ngày 31/10, người Anh bắt đầu ném bom các sân bay của Ai Cập. Tuy nhiên, đến ngày 6/11, dưới áp lực của Liên Xô (quốc gia tuyên bố sẵn sàng triển khai các biện pháp trả đũa chống lại Anh và Pháp) và cả Mỹ (vốn không muốn gây bất hòa với các nhà cung cấp dầu mỏ cho mình trong thế giới Arập chỉ vì hành động thiếu suy nghĩ của các đồng minh Tây Âu), Anh và Pháp đã buộc phải đình chiến, sau đó rút hết quân đội của mình ra khỏi khu vực xung đột.
Trong thời gian chiến tranh Trung Đông năm 1973, Anh và Mỹ cũng từng bàn bạc về khả năng “tiện thể” xâm nhập vào Arập Xêút và Kuwait để giành quyền kiểm soát các mỏ dầu, cũng như soạn thảo các kế hoạch lật đổ nguyên thủ một loạt các quốc gia Arập, thay thế họ bằng những nhân vật “chấp nhận được hơn”. Đó là thông tin được hãng BBC tiết lộ, sau khi nghiên cứu và công bố một loạt các tài liệu lưu trữ của chính phủ Anh vào tháng giêng năm 2004.
(Xem tiếp kỳ sau)
Hồng Sơn